Hóa trị không chỉ là một phương pháp để điều trị nhiều bệnh ung thư, mà nó còn là vũ khí giúp kéo dài thời gian sống của người bệnh. Liều lượng của các thuốc hóa chất sẽ được tính thông qua cân nặng và chiều cao của mỗi người bệnh dựa trên diện tích da. Mỗi một thuốc, hay mỗi phác đồ khi được khuyến cáo trong những hướng dẫn thực hành lâm sàng đều đã được cân nhắc lựa chọn cũng như tính toán kỹ lưỡng với những liều lượng thuốc qua các thử nghiệm lâm sàng.
Hóa trị là một trong các vũ khí chính để điều trị bệnh ung thư. Bên cạnh đó còn có phẫu thuật, nội tiết, sinh học, miễn dịch,… Chỉ định hóa trị sẽ phụ thuộc vào loại bệnh lý ung thư, mục đích điều trị, giai đoạn bệnh,… Sau đây là một số nội dung cơ bản để độc giả biết thêm thông tin về hóa trị trong việc điều trị ung thư. Rất nhiều yếu tố để quyết định thời gian điều trị. Chẳng hạn như loại bệnh ung thư, loại thuốc hóa chất, giai đoạn bệnh, thời gian cần có để sức khỏe hồi phục sau mỗi lần điều trị…
Mục lục
Liều hóa trị trong điều trị ung thư có ý nghĩa gì?
Hóa trị bổ trợ cải thiện đáng kể thời gian sống thêm cho bệnh nhân ung thư

Đối với số loại bệnh ung thư, chẳng hạn như ung thư vú. Phương pháp này bổ trợ cải thiện đáng kể thời gian sống thêm. Trong các trường hợp này, việc sử dụng đủ liều theo phác đồ là rất quan trọng. Các phân tích tổng hợp của Nhóm những người thử nghiệm ung thư vú sớm (EBCTCG) cho thấy; hóa trị phác đồ cyclophosphamide / methotrexate / fluorouracil [CMF] làm giảm từ 20% đến 25% nguy cơ tử vong. Hiệu quả còn tăng hơn khi bổ sung them anthracyclines và nhóm taxanes.
Một số phân tích tổng hợp đã cho thấy lợi ích của phác đồ điều trị dày đặc. Tuy nhiên một số người đặt câu hỏi về sự tương đồng của các nhánh được so sánh. Ví dụ liều taxane thấp (paclitaxel cứ 3 tuần 1 lần) là những yếu tố có khả năng gây nhiễu. Thêm một hạn chế nữa trong kết luận là sự giảm liều của hóa trị (mg / m2). Và chậm trễ chu kỳ, cho thấy ảnh hưởng đến sự sống.
Kết quả nghiên cứu
Trong một nghiên cứu đã được công bố; Bonadonna và các đồng nghiệp cho thấy tỷ lệ sống còn vượt trội đối với phụ nữ nhận được ≥85% liều CMF tối ưu (tổng tích lũy); so với những người nhận < 85% liều. Kết luận này cũng được ghi nhận trong nghiên cứu hồi cứu. Đối với ung thư vú ở phụ nữ giai đoạn I – III. Được điều trị FEC trong 3 chu kỳ. Sau đó là hóa trị liệu docetaxel (D) trong 3 chu kỳ (FEC-D) từ năm 2007 đến 2014 tại Alberta, Canada. Với việc người bệnh nhận được thuốc với 2 mức liều <85% và > 85% so với liều chuẩn.

Kết quả trên 1.302 bệnh nhân, chỉ có 202 bệnh nhân dùng < 85% liều. Còn lại 1100 dùng > 85% liều, số này có thời gian sống thêm 5 năm vượt trội. Ngoài ra việc giảm liều sớm (giảm ngay từ những đợt đầu) lại tiếp tục ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị. Và làm giảm thời gian sống thêm. Các nhà nghiên cứu Canada cho biết tỷ lệ sống tốt hơn đáng kể. Đối với những bệnh nhân ung thư vú được cứu chữa hóa chất bổ trợ đầy đủ liều. Đặc biệt là trong ba chu kỳ đầu tiên, so với những phụ nữ được giảm liều.
Các thuật ngữ dùng trong hóa trị
- Hóa trị bổ trợ: Hóa trị liệu nhằm diệt nốt các tế bào còn sót lại trong cơ thể. Sau khi khối u đã được phẫu thuật lấy bỏ, giúp đề phòng bệnh tái phát.
- Hóa trị tân bổ trợ: được sử dụng trước phẫu thuật nhằm làm giảm bớt kích thước u. Bệnh nhân tránh được một phẫu thuật cắt bỏ quá rộng rãi.
- Hóa trị tấn công: chủ yếu được sử dụng trong các phác đồ điều trị bệnh ung thư máu cấp. Dành cho giai đoạn điều trị tấn công.
- Hóa trị củng cố: một khi hóa trị tấn công trước đó đã đạt được sự thoái lui của bệnh. Phương pháp này củng cố nhằm giữ thành quả đó.
- Hóa trị duy trì: thường được sử dụng với liều thấp hơn nhằm kéo dài thời gian lui bệnh.
- Hóa trị triệu chứng: là những phác đồ dành cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối
Liều lượng hóa trị ảnh hưởng đến sự sống còn

Theo bác sĩ Zachary Veitch, Khoa Ung thư, Đại học Calgary, Trung tâm Ung thư Tom Baker, Alberta, Canada, nhận xét: “Điều làm chúng tôi ngạc nhiên nhất là việc giảm liều hóa trị sớm ảnh hưởng đáng kể đến sự sống còn so với giảm liều muộn”. “Điều này càng trở nên rõ ràng hơn khi các bệnh nhân được chia ra dựa trên việc cắt giảm liều phương pháp này”, ông nói thêm. “Thông thường, chu kỳ hóa trị đầu tiên có thể gây khó khăn cho bệnh nhân và các bác sĩ ung thư vì phải yêu cầu duy trì cường độ liều ban đầu trong khi phải kiểm soát tác dụng phụ và kiểm soát bệnh đi kèm”, bác sĩ Veitch bình luận.
John Ward, từ Viện Ung thư Huntsman tại Đại học Utah, Thành phố Salt Lake, là thành viên của hội đồng chuyên gia đã soạn thảo các hướng dẫn thực hành lâm sàng của Ung thư Toàn diện về Ung thư vú, đã bình luận: Điều trị trong ung thư vú giai đoạn đầu dẫn đến cải thiện khả năng sống. Khi hóa trị là một phần của điều bổ trợ, điều quan trọng là phải dùng đủ liều theo quy định. Nghiên cứu này rất có giá trị thực tiễn. Trong nhiều trường hợp, giảm liều lượng để giảm thiểu tác dụng phụ sinh ra hoặc do những bệnh khác đi kèm, chẳng hạn như bệnh thận hoặc tiểu đường. “Cân bằng các tác dụng phụ với hiệu quả luôn là một thách thức”, Ward nhận xét.
Kết luận
Tại nhiều bệnh viện hiện nay, các bác sĩ luôn tuân thủ theo đúng liều khuyến cáo. Để làm được điều này, cần phải đánh giá người bệnh và chế độ chăm sóc toàn diện, tỉ mỉ. Tiên đoán những tác dụng phụ của phương pháp này có thể xảy ra cũng như đề ra các biện pháp để phòng ngừa và giảm các tác dụng phụ xuống mức thấp nhất có thể. Điều này sẽ giúp người bệnh đi hết được liệu trình điều trị với kết quả tốt nhất.