Ra đời từ tận thế kỷ X thời nhà Đinh, nghệ thuật hát chèo đã trải qua bao chặng đường lịch sử đến nay và trở thành đại diện tiêu biểu nhất của nghệ thuật sân khấu truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong chèo có hát, có nói, có ngâm dân ca cùng những nhạc điệu đa dạng thể loại, mang tới những âm thanh nhẹ nhàng mà thấm đậm từng lời, từng ý nghĩa vào lòng người nghe. Ý nghĩa của các vở chèo cũng luôn hướng đến những tư tưởng tích cực vươn lên, mang niềm tin thiện thắng ác, tinh thần lạc quan, tôn vinh các anh hùng và cả chia sẻ khát vọng người dân lao động.
Hát chèo
Hát Chèo là một loại hình nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam. Nghệ thuật phát triển mạnh ở đầu tiên ở miền bắc Việt Nam. Trọng tâm là ở khu vực đồng bằng sông Hồng. Và dần lan rộng ra miền núi trung du Bắc bộ và Bắc trung bộ. Hát chèo có những nội dung tư tưởng lành mạnh. Với đầy đủ thể loại như trữ tình, anh hùng ca, lãng mạn, thơ ca,… hơn hẳn những loại hình nghệ thuật khác. Như cải lương, hát quan họ, tuồng…
![chèo](https://brumdir.com/wp-content/uploads/2021/10/133.jpg)
Sân khấu hát chèo được hình thành từ thế kỷ X. Phát triển qua nhiều thời đại. Nghệ thuật đã đi sâu vào tiềm thức của người dân tộc Việt Nam. Thể hiện tinh thần lạc quan, bác ái, yêu hoà bình, giản dị. Kiên quyết đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.
Chèo gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.
Lịch sử hình thành chèo
Lịch sử nghề Hát chèo gắn với kinh đô Hoa Lư – Ninh Bình được coi là đất tổ của sân khấu chèo, và người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10.
Ban đầu hát chèo là hình thức trò nhại. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Dần dần trở thành loại hình sân khấu tiêu biểu của nhiều nơi trong nước. Và thành tổ chức gọi là phường chèo.
![hát chèo](https://brumdir.com/wp-content/uploads/2021/10/131.jpg)
Vào những năm đầu ra đời. Phường chèo do một ông trùm cầm đầu đoàn đến diễn ở các thôn, xã. Mỗi phường chèo gồm có mười, mười lăm người kể cả nhạc công. Người đóng vai trò có đào kép, lão, mụ, hề. Cũng có khi trong phường chèo chỉ có một đào, một kép, một hề xuất sắc là phường chèo hoạt động được. Không nhất thiết phải có phông màn đầy đủ.
Nghệ thuật trong chèo
Hát chèo là loại hình sân khấu kể chuyện. Người diễn xưng danh và người xem dễ dàng theo dõi. Giống như sân khấu tuồng trong buổi diễn về chèo trống chầu có vai trò quan trọng. Một người có uy tín và sành sỏi điều khiển trống chầu. Chính người điều khiển trống chầu cầm trịch buổi diễn. Nhằm tỏ ý thưởng phạt, giám định hiệu suất diễn của đào, kép.
Chèo luôn gắn với chất “trữ tình”, thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
Nghệ thuật biểu diễn chèo gồm có múa, hát, âm nhạc và cả văn học trong tích chèo. Văn chèo luôn đậm sắc thái trữ tình của tục ngữ, ca dao. Thể hiện tính lạc quan hóm hỉnh. Văn hoá đậm đà ý nghĩa xã hội. Không những gây cho du khách nội địa những tình cảm thiện thắng ác. Mà còn làm cho du khách quốc tế có thêm tình cảm. Về bản chất nhân đạo trong mối quan hệ giữa người với người.
Xem thêm các bài viết của chúng tôi.